MINH CHỨNG CHO TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM”

 

Yêu nước” – một phẩm chất truyền thống được lưu truyền từ bao đời nay, từ thời ông cha ta tới thời con cháu. Mỗi người con dân Việt đều mang trong người truyền thống ấy. Đó là truyền thống tốt đẹp có từ nhiều thế kỉ, từ khi cả đất nước chống giặc ngoại xâm.

Minh chứng cho truyền thống ấy là những cuộc đấu tranh bằng xương máu của những người con yêu nước. Như trong bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta đó là bài thơ được viết bằng chữ Hán của Lí Thường Kiệt:

                   Nam Quốc Sơn Hà

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên phân định tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”

Vào năm 1076, hơn 30 vạn quân nhà Tống (Trung Quốc) do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược Đại Việt (tên nước Việt Nam thời đó). Lý Thường Kiệt lập phòng tuyến tại sông Như Nguyệt (sông Cầu) để chặn địch. Quân của Quách Quỳ đánh đến sông Như Nguyệt thì bị chặn. Nhiều trận quyết chiến ác liệt đã xảy ra tại đây nhưng quân Tống không sao vượt được phòng tuyến Như Nguyệt, đành đóng trại chờ viện binh. Đang đêm, Lý Thường Kiệt cho người vào đền thờ Trương Hống, Trương Hátở phía nam bờ sông Như Nguyệt, giả làm thần đọc vang bài thơ trên.  Nhờ thế tinh thần binh sĩ lên rất cao. Lý Thường Kiệt liền cho quân vượt sông, tổ chức một trận quyết chiến, đánh thẳng vào trại giặc. Phần vì bất ngờ, phần vì sĩ khí quân Đại Việt đang lên, quân Tống chống đỡ yếu ớt, số bị chết, bị thương đã hơn quá nửa. Lý Thường Kiệt liền cho người sang nghị hòa, mở đường cho quân Tống rút quân về nước, giữ vững bờ cõi nước Đại Việt.

Và truyền thống yêu nước còn vẻ vang hơn nữa vào những năm quân dân ta chiến đấu chống quân Minh xâm lược vào những năm của thế kỷ XV. Và bản tuyên ngôn độc lập thứ hai ra đời đó là Đại cáo bình Ngô, với tư tưởng nhân nghĩa, lấy dân làm gốc

Tờ cáo là một thông báo cho người dân trong nước về việc đánh bại nhà Minh và sự khẳng định sự độc lập của Đại Việt. Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo không chỉ tuyên bố độc lập, mà còn khẳng định sự bình đẳng của Đại Việt với Trung Quốc trong lịch sử từ trước đến nay và thể hiện nhiều ý tưởng về sự công bằng, vai trò của người dân trong lịch sử và cách giành chiến thắng của quân khởi nghĩa Lam Sơn. Ngoài ra, Nguyễn Trãi sử dụng Bình Ngô đại cáo để chứng minh tính chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và trả lời câu hỏi tại sao quân khởi nghĩa Lam Sơn có thể chiến thắng quân đội nhà Minh đó là chính sách dựa vào nhân dân.

Tiếp nối truyền thống ấy, đến những năm đầu thế kỷ 20, lại một lần nữa nước ta ra lại rơi vào ách đô hộ, lần này đó là sự đô hộ của thực dân Pháp. Và quân dân ta đã cùng nhau chiến đấu để chống lại cuộc chiến khắc nghiệt ấy suốt hơn 80 năm ròng rã. Mãi đến ngày 2/9/1945 tại quãng trường Ba đình, Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập lần khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, mở ra một kỉ nguyên độc lập tự do cho dân tộc.

Trong buổi lễ này, thông qua bản Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh cũng đã kêu gọi các nước Đồng minh ủng hộ nền độc lập chân chính do nhân dân Việt Nam vừa tự tay giành được thông qua Cách mạng tháng Tám. Ông tuyên bố rằng Chính phủ lâm thời đã huỷ bỏ hết mọi hiệp ước do Pháp kí trong quan hệ với Việt Nam và bãi bỏ hết mọi đặc quyền của người Pháp, và cảnh báo rằng người Việt “kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp”. Kết thúc bài phát biểu của mình, Hồ Chí Minh giới thiệu từng bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời với quần chúng nhân dân và tất cả đều làm lễ tuyên thệ nhậm chức.

Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí độc lập, tự cường đã trở thành một sức mạnh, một động lực tạo nên lợi thế về chính trị, tinh thần và chiến lược chiến tranh để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Chân lý mà Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, đã kết tinh truyền thống độc lập, tự chủ, tự cường của dân tộc; nó như sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử tư tưởng và tình cảm của dân tộc Việt Nam.

Vì độc lập, tự do, nhân dân ta đã chiến đấu kiên cường, không sợ khó khăn gia khổ, chấp nhận hy sinh. Hai Bà Trưng thà tuẫn tiết không chịu để giặc bắt. Tướng Lĩnh nhà Trần đã xin nhà vua quyết tâm chống giặc “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”. Trần Bình Trọng bị giặc bắt, dụ dỗ đã nói thẳng “Ta thà làm ma nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”. Lê Lai vì nghĩa lớn, liều mình cứu Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn; Nguyễn Trung Trực trước lưỡi gươm quân giặc đã khẳng định: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”, anh hùng Nguyễn Viết Xuân Viết Xuân kêu gọi: “Hãy nhằm thẳng quân thù mà bắn”. Các tấm gương anh hùng, liệt sĩ đã tô thắm thêm trang sử vàng của dân tộc. Trong mỗi thời kỳ lịch sử, truyền thống yêu nước luôn có những biểu hiện riêng bởi điều kiện lịch sử khách quan và hệ tư tưởng nhất định nhưng mục đích duy nhất vẫn là bảo vệ và gìn giữ bờ cõi non sông đất nước, bảo vệ nền độc lập dân tộc.

                                                                                    A.N.T

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *